Xây dựng bản đồ công nghệ protein và enzyme
Ngày đăng: 25/10/2024 09:45
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 25/10/2024 09:45
Protein rất quan trọng đối với nhiều chức năng trong cơ thể sống và các enzyme là chất xúc tác cần thiết cho tất cả các phản ứng hóa học trong hệ thống sinh học. Enzyme cũng được sử dụng trong nhiều quy trình công nghiệp. Do đó, chức năng của protein và enzyme đóng vai trò cơ bản trong cả sinh học và công nghệ, và hiểu về cách thức hoạt động của chúng có tầm quan trọng cơ bản và thực tiễn đáng kể. Công nghệ protein và enzyme (CNP&E) ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế sinh học toàn cầu đang phát triển.
Công nghệ sinh học (CNSH) ở nước ta đã có những tiến bộ nhanh chóng trong thời gian vừa qua. Việc ứng dụng CNSH truyền thống trong sản xuất đã trở nên phổ biến, góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nông - lâm - thuỷ sản; sản xuất vắc-xin và một số chế phẩm phục vụ bảo vệ sức khoẻ nhân dân và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, CNSH hiện đại của nước ta vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với một số nước trong khu vực và nhiều nước lên thế giới, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao mức sống của nhân dân, cũng như chưa tạo ra được các sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế quốc dân. Từ thực tế trên, TS. Lê Thị Bích Thảo và nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ Sinh học đã thực hiện đề tài: “Xây dựng bản đồ công nghệ protein và enzyme” trong thời gian từ năm 2019 đến năm 2021.
Mục tiêu của đề tài là nhằm xây dựng được bản đồ công nghệ sinh học cho lĩnh vực protein, enzyme trong đó tổng hợp một cách cơ bản và có hệ thống các công nghệ hiện có ở trên thế giới và Việt Nam trong ngành; mối liên hệ giữa sản phẩm - công nghệ, đánh giá trọng số và khoảng cách công nghệ của Việt Nam so với thế giới; và đưa ra được các vấn đề ưu tiên trong việc đổi mới công nghệ trong lĩnh vực tại Việt Nam cũng như các công nghệ trong protein, enzyme ưu tiên để phát triển các sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, y tế và bảo vệ môi trường.
Dưới đây là một số kết quả mà đề tài đã thu được:
- Đã xây dựng được Bản đồ CNP&E với các nội dung cụ thể sau:
+ Xây dựng được cây CNP&E: đầy đủ các lớp chi tiết.
+ Mô tả được 58 hồ sơ công nghệ chi tiết và 215 thông số công nghệ được mô tả: với đầy đủ các thông tin về: tên công nghệ, lớp công nghệ, phạm vi ứng dụng, mô tả công nghệ, hiện trạng công nghệ, năng lực công nghệ (sản xuất và nghiên cứu), vòng đời công nghệ, so sánh với thế giới, đánh giá khoảng cách so với thế giới xu hướng công nghệ trên thế giới.
+ Xây dựng được cây CNP&E chung cho các lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội: Thể hiện rõ các ứng dụng, sản phẩm quan trọng cần ưu tiên phát triển trong 04 lĩnh vực bao gồm nông nghiệp (7 ứng dụng chi tiết), công nghiệp (10 ứng dụng), y tế (11 ứng dụng) và môi trường (6 ứng dụng).
+ Đánh giá được năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, năng lực nghiên cứu của các Viện, trường có liên quan: Những công nghệ quy mô lớn cho nên công nghệ Protein và enzyme hầu như vẫn chưa sẵn sàng ở nước ta. Các sản phẩm, ứng dụng CNP&E chủ yếu tập trung ở khâu gia công và thương mại sản phẩm.
+ Xây dựng được lộ trình đổi mới công nghệ cho ngành, 01 đơn vị nghiên cứu và cho 8 doanh nghiệp sản xuất Protein và enzyme của Việt Nam
- Đã xây dựng được cơ sở dữ liệu CNP&E ở Việt Nam gồm có:
+ Dữ liệu về các CNP&E của VN tại thời điểm hiện tại: VN đã làm chủ và sử dụng phổ biến nhóm CN thu hồi với 27 công nghệ nền cơ bản. Trong đó có 21 công nghệ đa được trang bị thiết bị và sử dụng phổ biến ở mức độ cao. CN tác động cấu trúc với 12 công nghệ nền cơ bản đã được Việt Nam sử dụng. lớp CN làm bền, biosensor, protein chip (13 công nghệ nền), đây là nhóm các công nghệ mới nổi, vì vậy hiện nay Việt Nam vẫn chỉ sử dụng các công nghệ này ở mức độ thấp dưới 50%. Chưa làm chủ được các công nghệ điều hòa hoạt động chức năng.
+ Dữ liệu sản phẩm CNP&E của VN: Việt Nam (tính tới năm 2020) đã có 73 sản phẩm công nghệ P&E được ứng dụng trong bốn lĩnh vực: y dược, công nghiệp, nông nghiệp và môi trường. Trong đó có 41 sản phẩm đã được thương mại hóa.
+ Có 68 cơ sở nghiên cứu và ứng dụng CNP&E tại Việt Nam
- Đã đề xuất các vấn đề ưu tiên trong việc phát triển CNP&E tại Việt Nam đến năm 2030 bao gồm: các sản phẩm cần ưu tiên phát triển gồm có 23 sản phẩm, 10 nhóm ứng dụng chi tiết thuộc 4 lĩnh vực y tế, công nghiệp, nông nghiệp và môi trường; và các công nghệ cần ưu tiên phát triển gồm có 19 công nghệ. Đã xây dựng lộ trình đổi mới CNP&E của ngành và 4 lĩnh vực gồm có: lộ trình phát triển sản phẩm ưu tiên và các lĩnh vực ưu tiên, lộ trình phát triển công nghệ ưu tiên, lộ trình nghiên cứu và phát triển và lộ trình cho hạ tầng và nhân lực.
- Đã xây dựng lộ trình đổi mới CNP&E cho Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, và cho 8 doanh nghiệp của Việt Nam ở 4 lĩnh vực vực y tế, công nghiệp, nông nghiệp và môi trường, trong đó công nghiệp và nông nghiệp mỗi lĩnh vực tiến hành làm lộ trình cho 3 doanh nghiệp
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20255/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Vista.gov.vn