Loại gel mới điều trị bệnh răng miệng hiệu quả cao, ít tốn kém
Ngày đăng: 07/09/2020 08:58
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 07/09/2020 08:58
Sản phẩm được các nhà khoa học trong nước nghiên cứu, dễ sử dụng, ít tốn kém nhưng cho hiệu quả cao, hạn chế được các tác dụng không mong muốn.
Nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Khoa học và Công nghệ Dược Sài Gòn đã xây dựng công thức và quy trình điều chế gel in situ chứa clorhexidin gluconat để sản xuất được chế phẩm mới sử dụng trong nha khoa. |
Chế phẩm mới sử dụng trong nha khoa
Tại Việt Nam, bệnh nha chu và bệnh sâu răng là hai bệnh lý răng miệng có tỷ lệ mắc rất cao và có xu hướng ngày càng gia tăng. Viêm nha chu là tình trạng bệnh lý của mô nha chu bao gồm viêm nướu và viêm nha chu phá hủy do nguyên nhân chính là sự tích tụ mảng bám vi khuẩn trên bề mặt răng và trong túi nha chu.
Tình trạng nhiễm trùng bắt đầu từ nướu lan dần xuống các cấu trúc mô nha chu bên dưới, làm nướu mất bám dính vào răng và túi nha chu hình thành, từ đó phá hủy các mô nâng đỡ răng, làm tiêu xương ổ răng, lệch răng, lung lay răng.
Ngoài ra, bệnh nha chu viêm còn gây hôi miệng làm người bệnh thiếu tự tin trong giao tiếp. Biến chứng cuối cùng là gây mất răng, kéo theo các nhiễm trùng nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thẩm mỹ và khả năng giao tiếp.
TS. Huỳnh Trúc Thanh Ngọc, Trung tâm Khoa học và Công nghệ Dược Sài Gòn, cho hay việc điều trị bệnh nha chu viêm căn bản thường sử dụng các thủ thuật nha khoa như cạo vôi răng, xử lý mặt gốc răng, ghép nướu kết hợp với các kháng sinh đường uống,… Các thủ thuật nha khoa thường gây đau đớn cho người bệnh còn sử dụng các kháng sinh đường uống lại đưa đến nhiều tác dụng phụ, hiệu quả điều trị không cao.
Vì vậy, phương pháp điều trị tại chỗ, hay đưa thuốc trực tiếp vào đích tác động là túi nha chu viêm, luôn được ưu tiên chọn lựa bởi đây là một phương thức điều trị đơn giản, tiện dụng, ít tốn kém nhưng cho hiệu quả cao, hạn chế được các tác dụng không mong muốn.
Clorhexidin (CHX) là một chất kháng khuẩn điển hình, phổ rộng và an toàn, được nghiên cứu sử dụng nhiều nhất. Các dạng gel truyền thống chứa 0,5-2% CHX được sử dụng bằng cách bôi trên bề mặt nướu răng bị viêm và cũng mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, dạng gel truyền thống, cũng như dạng dung dịch súc miệng, màng mỏng trên nướu đều có chung một số nhược điểm là không đi sâu được vào trong túi nha chu, thời gian tồn lưu ngắn, nhanh chóng bị các cử động khoang miêng và dịch nước bọt thay thế loại bỏ, dẫn đến phải sử dụng nhiều lần gây bất tiện cho bệnh nhân.
Chính vì thế, nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Khoa học và Công nghệ Dược Sài Gòn đã tiến hành điều chế gel in situ chứa clorhexidin gluconat nhằm khắc phục được các nhược điểm của các dạng bào chế nói trên, đồng thời giúp tận dụng phát huy được khả năng trị liệu cao của CHX.
TS. Huỳnh Trúc Thanh Ngọc (thứ tư, trái sang). |
Theo TS Ngọc, hệ thống tạo gel tại vị trí tác động (in situ-forming gel, gọi tắt là gel in situ) là một lựa chọn phù hợp, đáp ứng yêu cầu này, nhưng trong nước hiện chưa có các nghiên cứu dạng bào chế gel in situ chứa CHX và cũng chưa có sản phẩm trên thị trường.
Qua nghiên cứu và thử nghiệm, nhóm đã xây dựng công thức và quy trình điều chế gel in situ chứa clorhexidin gluconat để sản xuất được chế phẩm mới sử dụng trong nha khoa.
Sẵn sàng chuyển giao sản xuất ở quy mô công nghiệp
Nhóm nghiên cứu đã đưa ra công thức bao chế gel in situ chứa 0,5% CHX, tạo gel nhanh chóng ở nhiệt độ 30oC, gel tạo thành trong suốt, đồng nhất, có thể chất tương đương gel đối chiếu Curasept. Công thức này cho khả năng phóng thích CHX cao hơn gel đối chiếu và thể hiện hoạt tính kháng khuẩn trên các chủng vi khuẩn thông thường cũng như hai chủng viêm nha chu vị thành niên và viêm nha chu mãn (P. gingivalis, A. actinomycetemcomitans).
Công thức cũng cho thấy tính ổn định qua 12 tháng theo dõi trong điều kiện đóng tuýp nhôm, có tiềm năng sử dụng trên lâm sàng.
Khi tiến hành đánh giá sự phóng thích in vitro sử dụng mô hình tế bào Franz theo chuyên luận dược điển Hoa kỳ (USP), kết quả cho thấy khả năng kháng khuẩn kéo dài của gel đối với các chủng vi khuẩn nghiên cứu.
Qua thăm dò các thông số của quy trình điều chế, khảo sát từ cỡ lô 250g - 1000g - 2000g, nhóm tác giả đã xây dựng được quy trình điều chế gel in situ chứa CHX, sản phẩm đạt các yêu cầu về nhiệt độ chuyển gel, độ nhớt, định lượng, giới hạn nhiễm khuẩn.
Quy trình điều chế đã được áp dụng sản xuất thử 3 lô (cỡ lô 1 kg tương ứng 200 tuýp) và 2 lô (cỡ lô 2 kg tương ứng 400 tuýp). Sản phẩm gel in situ chứa CHX được xây dựng và kiểm tra đạt tiêu chuẩn cơ sở. Chế phẩm đạt độ ổn định và các tiêu chuẩn sau khi được bảo quản 6 tháng ở điều kiện thường (30oC, độ ẩm tương đối 75%) và lão hóa cấp tốc (400C, độ ẩm tương đối 75%).
Theo TS. Huỳnh Trúc Thanh Ngọc, các chế phẩm dùng để điều trị bệnh viêm nha chu trong nước còn ít và còn nhiều nhược điểm.
“Vì vậy, thành công của đề tài này có thể cung cấp cho lĩnh vực điều trị nha khoa một dạng bào chế tiên tiến, được thiết kế đặc hiệu cho việc điều trị bệnh viêm nha chu vốn phổ biến ở Việt Nam. Đề tài cũng giải quyết được những yêu cầu về tính tiện dụng, thân thiện với bệnh nhân để nâng cao hiệu quả điều trị, qua đó góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân”, TS Ngọc chia sẻ.
Việc nghiên cứu trên công thức, xây dựng quy trình điều chế, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, theo dõi độ ổn định chế phẩm và khảo sát nâng dần cỡ lô từ nhỏ đến 2000g (400 tuýp) tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao sản xuất ở quy mô công nghiệp. Quy trình sản xuất có thể được chuyển giao và triển khai dễ dàng với các dây chuyền hiện có tại các công ty, các xí nghiệp dược phẩm ở TP.HCM cũng như trên cả nước. TS Ngọc cho hay, đề tài đã được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM nghiệm thu năm 2019 và nhóm sẵn sàng hợp tác với các công ty có nhu cầu để triển khai sản xuất.
Theo Khampha.vn