Hai đồng bằng của Việt Nam đối mặt với ô nhiễm asen ở mức cao
Ngày đăng: 21/08/2025 09:59
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 21/08/2025 09:59
Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có nồng độ asen trung bình trong nước ngầm cao hơn 5-10 lần so với chỉ dẫn của WHO - nghiên cứu mới cho biết và gợi ý rằng laterit là vật liệu tiềm năng để hấp phụ, xử lý ô nhiễm asen.
Dù phổ biến trong lớp vỏ Trái đất, asen lại là chất gây hại cao cho sức khoẻ con người và môi trường. Tiếp xúc với asen có thể dẫn đến đau dạ dày, rối loạn sắc tố da, tăng huyết áp, suy tim hoặc thậm chí đột quỵ và ung thư. Khi thải ra môi trường, asen có thể gây vô sinh hoặc chậm phát triển ở các loài động vật.
Asen không chỉ hình thành từ tự nhiên qua hoạt động địa nhiệt, địa chất hay phun trào núi lửa mà còn từ các hoạt động của con người như đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và có trong một số loại thuốc trừ sâu, phân bón, chất bảo quản gỗ…
Một nhóm các nhà nghiên cứu ở Đại học Quốc gia TPHCM, Trường Đại học Việt Đức đã phối hợp với đồng nghiệp tại Đại học Bowdoin (Mỹ) thực hiện nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm asen tại vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đồng thời đưa ra giải pháp giúp hạn chế sự ô nhiễm này.Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Current Opinion in Environmental Science & Health- một tạp chí Q1 nằm trong danh mục Scopus.
![]() |
Việc kiểm kê hàm lượng asen có trong hai đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Công bố nghiên cứu |
Nghiên cứu đã thực hiện phân tích, tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu địa phương khác nhau trong giai đoạn từ 1999 đến 2008 để xác định nồng độ ô nhiễm asen, đồng thời, phân tích sinh học với các mẫu tóc của những người dân sống trong khu vực ĐBSH và ĐBSCL để làm rõ mức độ phơi nhiễm asen mà họ đang gặp phải. Thông tin về các nghiên cứu được tổng hợp được dẫn nguồn chi tiết trong công bố nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho biết, nước ngầm, bao gồm nước tồn tại và lưu thông trong các lớp đất đá dưới bề mặt đất, ở cả hai khu vực đều ô nhiễm asen với nồng độ cao. Tại vùng ĐBSH, sự tồn tại của asen trong nước ngầm lần đầu tiên được phát hiện ở Hà Nội vào năm 1998 với hàm lượng lên tới 3050 μg/l, trung bình 127 μg/l. Các địa điểm khác ở Hà Nội, Hà Nam, Hà Tây và Hưng Yên đều ở hàm lượng gần 890μg/l. Trong khi đó, mức giới hạn nồng độ asen trong nước theo các hướng dẫn của WHO là 10μg/l.
Tại ĐBSCL, nồng độ asen trong nước ngầm lên tới 1930 μg/l, mức trung bình trên 50 μg/l. Tại một số nơi có hàm lượng thấp hơn như Long An, Tiền Giang, nồng độ asen trung bình khoảng 30 μg/l còn Kiên Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long, hàm lượng asen nhỏ hơn 16 μg/l. Ngược lại, hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp đều ô nhiễm ở mức rất cao với 1351μg/l và 666μg/l.
Về nguồn gốc của asen trong nước ngầm, nhóm nghiên cứu cho rằng, asen đã sẵn có trong tự nhiên, được giải phóng vào trầm tích qua một số quá trình tự nhiên như phong hóa, hoạt động núi lửa, hoạt động sinh học cũng như hoạt động của con người. Có ba cơ chế giải phóng asen vào nước ngầm(1) sự ô xy hóa của pyrite và các khoáng chất mang asen; (2) sự trao đổi của asen dễ hấp phụ với các anion nhưphốt phát, silicat; (3) sự phân hủy sắt (III) giàu asen. Cơ chế thứ hai được xem là quá trình chính dẫn đến sự giải phóng asen vào nước ngầm. Thêm vào đó, cơ chế vi sinh của vật chất hữu cơ trong trầm tích cũng đóng vai trò cốt lõi. Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ các vi sinh vật và vật chất hữu cơ đóng vai trò đáng kể trong giải phóng asen vào nước ngầm ở vùng đầu nguồn đồng bằng Cửu Long.
Vì vậy, các nhà nghiên cứu lo ngại rằng người dân sống ở hai đồng bằng lớn này đang đối mặt với phơi nhiễm qua tiêu thụ nước, thực phẩm nhiễm asen, đốt than và các quy trình công nghiệp như sản xuất thuốc trừ sâu, phân bón chứa asen... Trong vài thập kỷ qua, nước ngầm đã trở thành nguồn nước uống chủ yếu ở trong ĐBSCL, thay thế nước mặt và nước bơm giếng khơi. Để dẫn chứng nguy cơ rủi ro nhiễm asen, các tác giả đã dẫn kết quả một số nghiên cứu thực hiện ở ĐBSCL, khi phát hiện 350 người trong số 1.000 người people (chiếm 35 %) có những triệu chứng của melanosis do phơi nhiễm asen - triệu chứng tăng sắc tố làm da sạm màu hơn, và 70% trong số 350 người này có nồng độ asen trong mẫu tóc lớn hơn 3μg/g, chỉ dấu của tình trạng nhiễm asen từ nguồn nước.
Để khắc phục tình trạng này, các nhà nghiên cứu cho biết, ngoài các phương pháp đã được sử dụng như lắng cặn, lọc nước, trao đổi ion…, có thể có thêm giải pháp từ laterit tự nhiên - một loại đất phong hóa giàu sắt và nhôm có thể là chất hấp phụ tiềm năng. Thí nghiệm cho thấy laterit có thể hấp phụ hơn 90% asen trong mẫu nước có nồng độ ô nhiễm lên đến 20 mg/l. Không chỉ vậy, laterit còn có giá thành thấp, sau khi hấp phụ có thể tái chế để sản xuất bê tông.
Nhóm nghiên cứu nhận định, laterit - tại Việt Nam, được tìm thấy vùng Tây Nguyên, Đồng Nai, Tây Ninh... - có thể trở thành phương pháp xử lý asen bền vững và thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, họ cho rằng vẫn cần có thêm những nghiên cứu khác để hoàn thiện phương pháp này trước khi ứng dụng vào thực tế.
Khoahocphattrien