Gỡ bỏ nút thắt trong giám định sở hữu trí tuệ
Ngày đăng: 24/02/2025 09:29
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 24/02/2025 09:29
Thiếu nhân lực về giám định sở hữu trí tuệ là một nút thắt lớn cần được tháo gỡ trong quá trình thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Chứng cứ quan trọng để xử lý xâm phạm quyền SHTT
Tháng 9/2014, hãng dược phẩm Merck Sharp & Dohme (Hoa Kỳ) phát hiện Công ty Đạt Vi Phú (Việt Nam) xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) của mình. Cụ thể, Công ty Đạt Vi Phú đã sản xuất các loại thuốc Zlatko-100 và Zlatko-50 chứa hợp chất chính là Sitagliptin phosphat monohydrat, vốn thuộc phạm vi bảo hộ trong bằng độc quyền sáng chế của Công ty Merck Sharp & Dohme. Ngay lập tức, công ty này đã gửi thư khuyến cáo nhưng không nhận được ý kiến phản hồi. Để thu thập thêm bằng chứng, công ty Merck Sharp & Dohme đã nộp đơn yêu cầu giám định lên Viện Khoa học SHTT Việt Nam (Bộ KH&CN) và nhận được kết luận rằng có hành vi xâm phạm. Dựa trên ý kiến này, Công ty Merck Sharp & Dohme đã nộp đơn yêu cầu Thanh tra Bộ KH&CN xử lý hành vi xâm phạm sáng chế đối với Công ty Đạt Vi Phú. Trong quá trình thanh tra, Công ty Đạt Vi Phú đã thừa nhận hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế và cam kết chấm dứt việc sản xuất, quảng cáo và phân phối các sản phẩm thuốc vi phạm Zlatko-100 và Zlatko-50.
Tưởng chừng mọi chuyện đã “hai năm rõ mười” song ít ai ngờ, quá trình theo đuổi vụ việc kéo dài đến tận một thập kỷ. Bất chấp các yêu cầu từ Thanh tra Bộ KH&CN, Công ty Đạt Vi Phú vẫn không thực hiện. Do vậy, tháng 6/2016, Công ty Merck Sharp & Dohme đã khởi kiện hành vi xâm phạm sáng chế đối với Công ty Đạt Vi Phú tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Hơn ba năm sau, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử sơ thẩm với phần thắng thuộc về Công ty Merck Sharp & Dohme. Nhưng ngay sau đó, Công ty Đạt Vi Phú kháng cáo. Năm 2020, Tòa án nhân dân cấp cao TP.HCM đã ra bản án xét xử phúc thẩm, chấp nhận kháng cáo và hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại từ đầu. Đến tháng 9/2024, mọi việc mới ngã ngũ. Công ty Đạt Vi Phú phải công khai xin lỗi về hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, bồi thường chi phí pháp lý, nhưng không cần chấm dứt việc sản xuất và phân phối sản phẩm, bởi khi tuyên án, bằng sáng chế của Merck Sharp & Dohme đã hết hạn.
Luật SHTT đã bãi bỏ yêu cầu “tổ chức giám định phải có nhân lực, cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tổ chức hoạt động giám định”. Điều này không chỉ “mở rộng cửa” cho các tổ chức giám định SHTT mà còn hóa giải vướng mắc bấy lâu nay của các cơ quan quản lý “vì phải thẩm định cơ sở vật chất - kỹ thuật khi cấp giấy chứng nhận hoạt động cho các tổ chức giám định sở hữu trí tuệ, trong khi tiêu chí cụ thể cho việc thẩm định lại không có, thực tế công việc này cũng không đòi hỏi khắt khe về cơ sở vật chất kỹ thuật”. |
“Thoạt nhìn, với một loạt chứng cứ như kết luận giám định của Viện Khoa học SHTT, kết luận thanh tra của Thanh tra Bộ KH&CN khẳng định hành vi xâm phạm, các sản phẩm có chứa dấu hiệu xâm phạm sáng chế cũng đã bị tạm giữ và lập biên bản, hầu hết đều cho rằng bức tranh đã rõ như ban ngày, xâm phạm sáng là hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi, bị đơn không có cơ sở để lật lại vụ án, tốt nhất nên chấp nhận thua cuộc và xin đàm phán để giảm bớt thiệt hại”, luật sư Nguyễn Vũ Quân và Đinh Trang Ly ở Kenfox IP & Law Office, nhận xét trong một bài viết trên Lexology. “Nhưng vụ án này cho chúng ta một góc nhìn khác: thắng trong thủ tục hành chính chưa nói lên điều gì. Vẫn còn cơ hội để bác bỏ các cáo buộc xâm phạm sáng chế từ chủ bằng sáng chế dù cho có thể mọi bằng chứng dường như đang chống lại bị đơn. Và dưới góc độ của chủ bằng sáng chế, rõ ràng, xử lý xâm phạm sáng chế bằng biện pháp dân sự đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc về tố tụng, nếu không vụ án mà tưởng như đã thắng đến nơi, hóa ra lại trở thành thất bại khó cứu vãn”.
Cú lội ngược dòng của Công ty Đạt Vi Phú bắt nguồn từ kẽ hở nằm ở bước giám định. Trong bản án năm 2020, Tòa án cấp cao cho rằng kết luận giám định của Viện Khoa học SHTT không có giá trị chứng minh. Nguyên nhân là Công ty Merck Sharp & Dohme không cung cấp mẫu vật là thuốc Zlatko 100, Zlatko 50 mà chỉ cung cấp tên của hợp chất dựa trên đăng ký lưu hành thuốc của Công ty Đạt Vi Phú (theo Quyết định số 437/QĐ-QLD ngày 12/8/2014 của Cục trưởng Cục Quản lý Dược về việc ban hành danh mục 412 thuốc sản xuất trong nước được đăng ký lưu hành tại Việt Nam-đợt 146, trong đó có sản phẩm Zlatko 100 và Zlatko 50 do bị đơn đăng ký) do vào thời điểm đó, Công ty Đạt Vi Phú chưa bắt đầu sản xuất. Trong trường hợp này, kết luận giám định không đủ tính khách quan, bởi chỉ dựa trên ‘tài liệu’ mà không có ‘mẫu vật’ là thuốc Zlatko 100, Zlatko 50.
Kết quả giám định SHTT là một trong những chứng cứ quan trọng để giải quyết các vụ tranh chấp quyền SHTT như vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp giữa Công ty Cổ phần Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam (bên xâm phạm) và Tổng Công ty Cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (SABECO).
Kết quả giám định SHTT là một trong những chứng cứ quan trọng để giải quyết các vụ tranh chấp quyền SHTT như vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp giữa Công ty Cổ phần Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam (bên xâm phạm) và Tổng Công ty Cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (SABECO). |
Trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, Công ty Đạt Vi Phú không đồng ý với kết luận giám định và có yêu cầu giám định lại, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại không chấp nhận. “Lẽ ra, khi bị đơn không đồng ý với kết luận và có yêu cầu giám định lại, thì Tòa án sơ thẩm phải trưng cầu giám định và sử dụng mẫu vật do Thanh tra Bộ KH&CN lưu giữ mới phù hợp. Nếu Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện Khoa học SHTT giám định dựa trên mẫu vật (tang vật) đã tạm giữ trong buổi thanh tra tại trụ sở chính của bị đơn, và kết luận của Viện SHTT được thực hiện dựa trên mẫu vật này, bị đơn sẽ không còn lý do để bác bỏ tính hợp pháp của chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm sáng chế và cơ sở để hủy bỏ toàn bộ bản án sơ thẩm để yêu cầu xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm có thể đã không tồn tại”, theo luật sư Nguyễn Vũ Quân và Đinh Trang Ly. Như vậy, quá trình giải quyết vụ việc có thể đã không phải kéo dài đến tận 10 năm.
Tăng cường nhân lực giám định SHTT
Đây là một trong những ví dụ điển hình cho thấy tầm quan trọng của giám định SHTT. “Khác với giám định tư pháp về SHTT được thực hiện theo quy định của pháp luật về giám định tư pháp, giám định về SHTT là một loại giám định độc lập và cũng được coi là một nguồn chứng cứ hợp pháp”, luật sư Lê Quang Vinh ở Công ty SHTT Bross & Partners, cho biết. “Giám định SHTT là việc tổ chức, cá nhân được cấp thẻ giám định SHTT đang làm việc cho doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư (không bao gồm tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam) sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về vấn đề quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Kết luận giám định không được kết luận về hành vi xâm phạm quyền SHTT hoặc kết luận về vụ tranh chấp”.
Dù không bắt buộc song giám định SHTT lại đóng vai trò then chốt trong các vụ kiện liên quan đến SHTT tại Việt Nam. “Có một thực tế là hiện nay các cơ quan xử lý xâm phạm quyền SHTT hầu như dựa vào kết luận giám định SHTT, dù theo quy định trong luật, nó chỉ là nguồn chứng cứ để cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Điều này gần như chỉ đặc thù ở Việt Nam. Trên thế giới, các nước (chủ yếu xử lý tranh chấp SHTT bằng biện pháp dân sự) thường dựa trên ý kiến của các chuyên gia”, một nhà nghiên cứu trong lĩnh vực SHTT chia sẻ với KH&PT. Vị thế đặc biệt của hoạt động giám định bắt nguồn từ sự non trẻ của hệ thống SHTT trong nước. “Việt Nam chưa có tòa chuyên trách về SHTT (năm 2024 mới ban hành quy định thành lập tòa sơ thẩm chuyên biệt về SHTT), và nhiều thẩm phán tại Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý các vụ việc phức tạp liên quan đến sáng chế. Vì vậy, trước khi tiến hành các hoạt động thực thi, việc yêu cầu giám định và có được kết luận giám định thuận lợi từ Viện Khoa học SHTT là hết sức cần thiết để hỗ trợ việc giải quyết các vụ việc một cách chính xác và hiệu quả”, theo luật sư Nguyễn Vũ Quân.
Trái ngược với các vụ xâm phạm quyền SHTT có xu hướng ngày càng gia tăng, đội ngũ giám định viên SHTT ở Việt Nam vẫn còn khá “èo uột”. Theo thống kê của Cục Thông tin KH&CN quốc gia năm 2017, Việt Nam chỉ có bốn giám định viên và một tổ chức công lập đủ điều kiện cung ứng dịch vụ này. Sự thiếu hụt giám định viên SHTT đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi quyền SHTT. Chẳng hạn như trường hợp tranh chấp bản quyền phần mềm hệ thống website giữa Công ty TNHH Văn hóa Đông Tây với Công ty TNHH QGS từ năm 2012. Sau khi thụ lý đơn kiện, Tòa án nhân dân TP Đà Nẵng đã gửi công văn các Sở VH, TT&DL và Sở TT&TT để giới thiệu tổ chức giám định về hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên, đến năm 2014 vụ việc mới được giải quyết, sau hơn một năm “mòn mỏi” đợi chờ vì mãi không tìm được ai đủ khả năng giám định. “Đây là vấn đề rất bức xúc từ lâu, nhu cầu về giám định SHTT rất lớn nhưng hiện nay số lượng giám định viên SHTT ở Việt Nam còn rất hạn chế”, theo chia sẻ từ các chuyên gia trong ngành.
Trong lần sửa đổi Luật SHTT gần đây nhất, nút thắt này đã phần nào được tháo gỡ. Cụ thể, Luật SHTT đã bãi bỏ yêu cầu “tổ chức giám định phải có nhân lực, cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tổ chức hoạt động giám định”. Điều này không chỉ “mở rộng cửa” cho các tổ chức giám định SHTT mà còn hóa giải vướng mắc bấy lâu nay của các cơ quan quản lý “vì phải thẩm định cơ sở vật chất - kỹ thuật khi cấp giấy chứng nhận hoạt động cho các tổ chức giám định sở hữu trí tuệ, trong khi tiêu chí cụ thể cho việc thẩm định lại không có, thực tế công việc này cũng không đòi hỏi khắt khe về cơ sở vật chất kỹ thuật”. “Việc mở rộng đối tượng và tăng cường năng lực giám định SHTT là nhu cầu cấp thiết đã được đề cập rất nhiều lần. Sự thay đổi về quy định này là điều phù hợp và cần thiết giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động giám định SHTT ở Việt Nam”, luật sư Lê Xuân Lộc ở Công ty Luật Tilleke & Gibbins Việt Nam, nhận xét.
Bài đăng KH&PT số 1332 (số 8/2025)
Khoahocphattrien