Đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS
Ngày đăng: 21/04/2025 08:31
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 21/04/2025 08:31
Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là bộ ba nhân tố then chốt trong nội dung Nghị quyết 57-NQ/TW, được kỳ vọng là chìa khóa đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên mới.
![]() |
Các nhà khoa học Viện Khoa học Vật liệu (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) nghiên cứu sơn chống cháy. Nguồn: Viện KHVL |
Trong một bài viết gần đây gửi đến các lãnh đạo đơn vị của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh đây là lần đầu tiên bộ ba này được quy tụ trong một nghị quyết của Bộ Chính trị, và nhập về một Bộ quản lý. Điều này phản ánh một cách tiếp cận mang tính tiên phong khi trên thế giới rất ít các quốc gia thấy được tầm quan trọng của việc kết nối bộ ba nhân tố then chốt thành một hệ sinh thái. "Với Việt Nam, bộ ba này lựa chọn bắt buộc, là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu, là điều kiện tiên quyết, là thời cơ để Việt Nam giàu mạnh và hùng cường trong kỷ nguyên mới".
Tuần báo Khoa học và Phát triển xin chia sẻ tới bạn đọc một số nội dung trong bài viết của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng.
Khái niệm và một số vấn đề liên quan
Khái niệm
Khoa học là quá trình khám phá quy luật và bản chất của thế giới tự nhiên và xã hội. Công nghệ là việc ứng dụng tri thức khoa học để tạo ra công cụ, quy trình hoặc sản phẩm phục vụ con người.
Đổi mới sáng tạo là đưa công cụ, tri thức vào cuộc sống và thị trường một cách sáng tạo để tạo ra các giá trị mới.
Chuyển đổi số là việc số hóa toàn diện, tạo ra một môi trường mới - môi trường số, và tương tác với môi trường thực để thay đổi cách tổ chức hoạt động, cách cung cấp dịch vụ và cách tạo ra giá trị mới. Chuyển đổi số (CĐS) tạo ra mảnh đất mới cho việc ứng dụng và phổ cập nhanh các kết quả nghiên cứu.
Một thí dụ minh họa
Công ty Hachi, một công ty của Việt Nam, nghiên cứu ra chất dinh dưỡng cho vào nước để trồng rau, không cần đất. Nghiên cứu ra chất dinh dưỡng này là KH.
Công ty Hachi dùng cảm biến để đo nồng độ dinh dưỡng trong nước, gửi thông tin qua mạng điện thoại di động về máy chủ, phần mềm máy chủ ra quyết định khi nào thì bơm thêm chất dinh dưỡng vào nước. Hachi cũng phát triển một ứng dụng phần mềm để người trồng rau xem được tình trạng của rau. Hachi kết nối nước, dinh dưỡng, cảm biến, bơm và phần mềm thành một hệ thống trồng rau hoàn chỉnh. Đây là công đoạn biến tri thức KH thành một một thiết bị trồng rau thông minh, là quá trình phát triển CN.
Công ty Hachi có thể kinh doanh theo cách truyền thống là dùng sản phẩm mới này để trồng rau bằng nước và bán rau thu tiền. Nhưng Hachi lại chọn cách kinh doanh khác là cho các hộ gia đình thuê hệ thống trồng rau. Các gia đình sẽ trả tiền thuê hệ thống theo tháng, sau đó mua giống, mua chất dinh dưỡng từ Hachi. Hachi không trồng rau, không bán rau mà bán công nghệ và các thứ tạo ra rau, các hộ gia đình mới là người trồng rau và tiêu thụ rau. Đây là đổi mới mô hình kinh doanh. Với mô hình kinh doanh mới này thì có hàng chục ngàn hộ gia đình trồng rau, tiêu thụ rau. Hachi vì thế mà lớn mạnh nhanh chóng. ĐMST trong câu chuyện này là đổi mới mô hình kinh doanh.
Tổng Bí thư Tô Lâm nói, ĐMST là cây gậy thần, ý là dùng ĐMST như cây gậy thần để trỏ một công nghệ cao chạm vào một thực tiễn và thay đổi thực tiễn đó một cách đột phá. Tức là ứng dụng KHCN vào thực tiễn một cách sáng tạo, để tạo ra giá trị lớn. |
Thiết bị trồng rau thông minh được số hóa toàn diện, một máy chủ, một trung tâm dữ liệu, một App ứng dụng, một đội ngũ kỹ thuật hỗ trợ, nhưng hàng chục ngàn hộ sử dụng, có thể nhân rộng ra toàn quốc mà vẫn duy trì được chất lượng. Không những thế, vì có nhiều người dùng, hệ thống thu thập được nhiều thông tin hơn và ngày càng thông minh hơn, trồng rau hiệu quả hơn. CĐS là môi trường để đổi mới mô hình kinh doanh, nhân rộng sản phẩm. Không có CĐS thì công ty Hachi phải có nhân viên kỹ thuật đi đến hàng chục ngàn hộ gia đình để hỗ trợ kỹ thuật và điều này rất tốn kém và không khả thi.
Về ba giai đoạn phát triển của Việt Nam
Nông nghiệp giúp Việt Nam thoát nghèo.
Công nghiệp (FDI, gia công, lắp ráp) giúp Việt Nam thành nước thu nhập trung bình.
KHCN/ĐMST/CĐS sẽ giúp Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình, thành nước phát triển thu nhập cao.
Ba giai đoạn phát triển công nghệ của một quốc gia
Ba giai đoạn này đi từ Đầu tư (là mua về dùng), đến Thẩm thấu (là hiểu), rồi đến Sáng tạo (là tạo ra cái mới). Nó giống như Ăn -> Tiêu hóa -> Sáng tạo.
Đầu tư là mua công nghệ của nước ngoài về dùng. Đây là ưu tiên trong giai đoạn đất nước có thu nhập thấp, công nghệ lạc hậu.
Thẩm thấu công nghệ, tức là tiêu hoá công nghệ, làm chủ và cải thiện công nghệ từ nước ngoài, đưa thêm các xúc tác mềm như chuyên gia, đào tạo, kiến thức, tư duy lãnh đạo, quản trị và quản lý hiện đại, từ đó tạo ra sản phẩm tốt hơn, tăng hiệu suất của CN. Đây là ưu tiên trong giai đoạn đất nước có thu nhập trung bình, làm chủ công nghệ ở mức sử dụng và cải tiến.
Sáng tạo là đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu phát triển để tạo ra công nghệ và sản phẩm mới, đồng thời với nó là đổi mới thể chế, quản trị quốc gia và mô hình phát triển địa phương. Đây là ưu tiên trong giai đoạn đất nước đã bước vào mức thu nhập trung bình cao, đã sở hữu nền tảng công nghệ của giai đoạn đầu tư và nâng cao năng lực nội sinh của giai đoạn thẩm thấu công nghệ, để từ đó sáng tạo CN, vượt bẫy thu nhập trung bình, và trở thành nước phát triển. Nghị quyết 57 là tuyên ngôn của Việt Nam, đất nước đã đến lúc phải bước vào giai đoạn sáng tạo.
Sáng tạo và đổi mới sáng tạo
Từ tiếng Anh “Innovation” vừa là nghĩ ra ý tưởng mới, vừa là hành động tạo ra kết quả mới, tiếng Việt không có từ tương ứng, nên phải dịch là “đổi mới sáng tạo”. Sáng tạo thường dừng lại ở mức ý tưởng, mới là tiền đề của đổi mới. ĐMST nhấn mạnh tính hành động, biến ý tưởng mới thành sản phẩm/dịch vụ mới, mô hình khi doanh mới, mô hình quản trị mới có giá trị thực tiễn. Sáng tạo là nghĩ ra cái mới, ĐMST là làm ra cái mới.
Luật KH&CN sẽ được sửa đổi thành Luật KH, CN và ĐMST, đặt ĐMST ngang với KHCN, để nhấn mạnh tính ứng dụng vào thực tiễn của KHCN.
Tổng Bí thư Tô Lâm nói, ĐMST là cây gậy thần, ý là dùng ĐMST như cây gậy thần để trỏ một công nghệ cao chạm vào một thực tiễn và thay đổi thực tiễn đó một cách đột phá. Tức là ứng dụng KHCN vào thực tiễn một cách sáng tạo, để tạo ra giá trị lớn.
Ứng dụng CNTT và CĐS
Ứng dụng CNTT là làm cái cũ theo cách cũ, dùng CNTT để tự động hóa quy trình cũ.
CĐS là làm cái cũ theo cách mới. Thí dụ, học online thay vì học trực tiếp. Cần thay đổi các quy định về dạy học. CĐS là vấn đề thể chế nhiều hơn là vấn đề công nghệ (thể chế 70%, công nghệ 30%). Bởi vậy, CĐS muốn nhanh thì phải thay đổi thể chế, thay đổi các quy định.
CĐS còn là tạo ra cái mới. CĐS tạo ra một môi trường mới là môi trường số, làm xuất hiện nhiều cái mới, rất mới, như sản phẩm, dịch vụ mới, mô hình kinh doanh mới (taxi công nghệ), tài sản mới (dữ liệu, tiền kỹ thuật số). Nó cần thể chế mới để được chấp nhận. Nhiều cái mới trên môi trường số có thể thách thức, phá hủy cái cũ, mô hình cũ (như ngân hàng số thách thức ngân hàng truyền thống), đây là sự phá hủy mang tính sáng tạo. Phải dùng cơ chế sandbox để thử trước rồi phổ cập sau.
Bộ ba KHCN, ĐMST và CĐS
KHCN là nền tảng, nó tạo ra tri thức, công cụ mới. Khoa học là nghiên cứu cơ bản tìm ra tri thức mới. Công nghệ là phát triển ra công cụ/sản phẩm mẫu dựa trên tri thức mới.
ĐMST là quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ, quy trình hoặc mô hình mới có giá trị thực tiễn, thông qua việc kết hợp tri thức, công nghệ và cách tiếp cận mới.
CĐS tạo ra môi trường số thuận lợi, mảnh đất mới mầu mỡ để đẩy nhanh tốc độ phát triển KHCN/ĐMST, phổ cập nhanh các sản phẩm mới vào cuộc sống. Môi trường số tạo thuận lợi cho phát triển vì nó phi vật lý, phi biên giới, phi khoảng cách, phi trung gian. Nó đổi mới toàn diện phương thức vận hành, quản trị, cung cấp dịch vụ của tổ chức và quốc gia. Ngược lại, phát triển KHCN/ĐMST cũng đẩy nhanh tiến trình CĐS. Bởi vậy, CĐS vừa là môi trường vừa là mục tiêu của KHCN/ĐMST.
Lần đầu tiên, bộ ba này đi chung với nhau trong một nghị quyết của Bộ Chính trị, và nhập với nhau về một bộ quản lý. Thế giới có không đến 5% các nước nhận thấy tầm quan trọng của bộ ba này và nhập về một nơi, biết cách nối chúng với nhau, tạo thành một hệ sinh thái. Việt Nam thuộc nhóm tiên phong về cách tiếp cận này.
Với Việt Nam, bộ ba này lựa chọn bắt buộc, là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu, là điều kiện tiên quyết, là thời cơ để Việt Nam giàu mạnh và hùng cường trong kỷ nguyên mới.
Nước có thu nhập cao, nước phát triển và bẫy thu nhập trung bình
35 năm qua, tính từ 1990, có 34 quốc gia từ thu nhập trung bình trở thành thu nhập cao. Nhưng chỉ có 10-12 quốc gia được coi là nước phát triển, thí dụ như Hàn Quốc, Israel, Cộng hòa Séc, Ba Lan. Đó là những quốc gia đạt thu nhập cao thông qua KHCN/ĐMST/CĐS, có trình độ công nghiệp hóa (CNH) cao, có năng suất lao động (NSLĐ) cao, có thể chế ổn định, hạ tầng hiện đại, hệ thống giáo dục, y tế phát triển.
Việt Nam chúng ta hướng tới cả hai mục tiêu: Thu nhập cao và phát triển. Để trở thành nước phát triển có thu nhập cao thì đóng góp vào tăng trưởng GDP của KHCN/ĐMST/CĐS phải trên 50%.
Ngưỡng thu nhập cao năm 2023 là 13.800$, ngưỡng này tăng trung bình 2-3%/năm, nên ngưỡng thu nhập cao năm 2045 sẽ là 20-25.000 USD. Nếu tính cả tăng dân số, thì để đạt ngưỡng thu nhập cao vào năm 2045, GDP Việt Nam phải tăng ít nhất 5 lần trong 20 năm tới. Nếu 10 năm đầu tăng trưởng 10%, 10 năm tiếp theo vẫn phải tăng trưởng 7% thì mới đạt mục tiêu. Bởi vậy, tăng trưởng 2 con số liên tục 10 năm tới là bắt buộc.
Một nước mà 40 năm không vượt qua được thu nhập trung bình thì chắc chắn là đã vào bẫy thu nhập trung bình, 30 năm mà chưa vượt qua được thì có nguy cơ mắc bẫy.
Việt Nam, năm 2010 là bắt đầu vào thu nhập trung bình, nếu 2040, sau 30 năm, chưa thành thu nhập cao là có nguy cơ mắc bẫy, đến 2050, sau 40 năm, mà chưa thành thu nhập cao thì chắc chẵn là vào bẫy.
Nếu 2045, sau 35 năm, Việt Nam không vượt ngưỡng thu nhập cao thì nguy cơ rất cao là sẽ vào bẫy thu nhập trung bình. Bởi vậy, mốc thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam có ý nghĩa sống còn.
Một số nước vượt qua thu nhập trung bình là, Nhật Bản mất 25 năm, Hàn Quốc mất 32 năm, Trung Quốc mất 24 năm.
Một số phát triển mới gần đây Về KH: Chỉnh sửa gene chính xác đã đạt được những thành tựu bứt phá, đang mở ra một kỷ nguyên mới, khi con người có thể can thiệp vào tận gốc của mã gene, mã của sự sống, có thể ghép tạng, có thể chữa các bệnh hiểm nghèo, phòng chống ung thư, cây trồng không cần thuốc trừ sâu, kiểm soát dịch bệnh. Trí tuệ nhân tạo tổng quát, là trí tuệ rất gần với con người, có thể tự học kiến thức, kỹ năng, đã ra được sản phẩm mẫu trong phòng thí nghiệm. Về CN: Công nghệ tính toán lượng tử đã có chip, đã tiến gần tới thương mại hoá, đi nhanh hơn dự kiến. Công nghệ AI đã rẻ đi 20 lần với sự ra đời DeepSeek của Trung Quốc, mở ra thời kỳ phổ cập của AI. Trung Quốc luôn là nước làm cho CN cao rẻ đi và phổ cập. Công nghệ tấm pin Mặt trời đã đạt hiệu suất 35%, trước đây chỉ được 25%. Công nghệ pin mới đã giúp xe điện đi được 1000km sau một lần sạc, sẽ thay đổi cục diện của xe điện. Về ĐMST: AI đã được sử dụng trong nghiên cứu khoa học, như hóa học, vật lý, sinh học, và sẽ đẩy rất nhanh tốc độ nghiên cứu KH. Về CĐS: Đã có thể tạo ra bản sao số của cả một thành phố, có thể làm các mô phỏng để tìm giải pháp tối ưu giải quyết các bài toán lớn của đô thị nén, như ùn tắc giao thông, úng lụt. |
Bộ Trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng
Bài đăng KH&PT số 1340 (số 16/2025)
Khoahocphattrien