Băng y tế thông minh đưa thuốc trực tiếp vào vết thương
Ngày đăng: 17/02/2020 10:20
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 17/02/2020 10:20
Loại băng y tế thông minh điều khiển không dây để đưa thuốc trực tiếp vào vết thương qua bộ kim thu nhỏ giúp cho cuộc sống của hàng ngàn người có vết thương mạn tính và lâu lành trở nên thuận lợi hơn khi người dùng có thể tự điều chỉnh lại liều lượng thuốc và không cần thay băng thường xuyên.
Theo UConnToday, các nhà khoa học Mỹ ở Đại học Connecticut đã phát triển một loại băng thông minh điều khiển không dây để đưa thuốc trực tiếp vào vết thương. Băng được trang bị bộ kim thu nhỏ, qua đó, liều lượng của thuốc có thể được điều chỉnh lại một cách độc lập và không cần thay băng thường xuyên. Công nghệ này giúp cho cuộc sống của hàng ngàn người có vết thương mạn tính và lâu lành trở nên thuận lợi hơn.
Ở các giai đoạn tái tạo mô khác nhau, các loại thuốc khác nhau là cần thiết. Băng y tế thông minh giải quyết vấn đề này bằng cách cung cấp đúng loại thuốc với liều lượng chính xác. Các loại thuốc nằm trong một nền tảng đặc biệt có kích thước ngang chiếc điện thoại thông minh và dần dần xâm nhập vào khu vực bị tổn thương. Liều dùng có thể được điều chỉnh lại một cách độc lập mà không cần đến bác sĩ. Kim tiêm nhỏ có khả năng xâm lấn tối thiểu, vì vậy, việc truyền thuốc không gây đau.
Băng y tế thông minh đã được thử nghiệm trên các mô hình chuột bị tổn thương da do tiểu đường. Điều trị này góp phần làm lành vết thương nhanh chóng và hoàn toàn mà không để lại sẹo.
Tác giả của băng y tế thông minh, tiến sĩ Ali Tamayol, cho biết đây là một bước quan trọng trong việc phát triển các thiết bị đeo thông minh để chữa lành vết thương phức tạp. Ngoài ra, băng không cần phải thay đổi thường xuyên, nhà khoa học cho biết thêm.
Như vậy, có thể dùng băng y tế thông minh để điều trị cho những người bị loét da do tiểu đường - biến chứng nghiêm trọng nhất của tiểu đường, thường có thể dẫn đến nguy cơ cắt cụt chi. Các nhà khoa học đã nhận được bằng sáng chế cho công nghệ của họ và sẽ tiếp tục nghiên cứu để xác nhận tính hiệu quả và độ an toàn của phương pháp này trên người.
Theo Motthegioi